Hiển thị các bài đăng có nhãn dich-vu-ke-toan. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn dich-vu-ke-toan. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

Sửa Luật Kế toán, nhiều quy định hành doanh nghiệp

(ĐTCK) Luật gia Vũ Xuân Tiền, Chủ tịch HĐTV thành lập Công ty TNHH Tư vấn VFAM Việt Nam, Trưởng ban Nghiên cứu pháp luật và tư vấn, Chi hội dịch vụ Kế toán hành nghề Việt Nam cho rằng, Dự luật Kế toán sửa đổi đưa ra nhiều quy định “hành” DN, khi “đẻ” ra tới 9 loại giấy phép con.

9 loại giấy phép con mà ông phát hiện trong Dự thảo luật bao gồm những loại nào?

Tôi không đồng ý với dự thảo Luật khi sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện hành nghề dịch vụ kế toán. Ban soạn thảo đã “vẽ” ra tới 9 loại giấy phép con như: giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán; những người có chứng chỉ hành nghề kế toán phải xin giấy chứng nhận đăng ký hành nghề mới được phép hành nghề; người đại diện theo pháp luật, giám đốc của DN kinh doanh dịch vụ kế toán phải có chứng chỉ hành nghề kế toán… Mục đích của việc đặt ra quá nhiều loại giấy phép con này là gì, nếu không phải là “hành” DN, gây khó cho những người muốn kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ kế toán?

Theo Ban soạn thảo, việc đưa ra các điều kiện chặt như vậy là nhằm kiểm soát tốt hơn chất lượng dịch vụ kế toán, tránh những hệ lụy phát sinh?

Tôi không đồng ý với lý lẽ như vậy, bởi những nội dung trong Dự thảo luật cho thấy, Ban soạn thảo muốn áp đặt phương thức quản lý đối với dịch vụ kiểm toán độc lập cho hoạt động dịch vụ kế toán. Đây là cách tiếp cận không hợp lý, bởi thổi phồng quá mức tầm quan trọng của dịch vụ kế toán. Trên thực tế, dịch vụ kiểm toán độc lập và dịch vụ kế toán khác xa nhau. Trong khi kiểm toán độc lập được hành nghề trong mọi lĩnh vực, thì dịch vụ kế toán chỉ phục vụ cho đối tượng là DN siêu nhỏ và nhỏ. Các DNNN không được sử dụng dịch vụ kế toán. Các DN quy mô vừa và lớn, các DN đã niêm yết trên TTCK, các ngân hàng cũng không sử dụng dịch vụ kế toán, mà tổ chức bộ máy kế toán để đáp ứng yêu cầu quản lý. Báo cáo kiểm toán của kiểm toán độc lập được sử dụng cho nhiều mục đích quan trọng như: chia lợi nhuận, liên doanh, đấu thầu…, trong khi với báo cáo tài chính do dịch vụ kế toán cung cấp, thì khách hàng của DN kinh doanh dịch vụ kế toán là người đại diện theo pháp luật của DN ký và chịu trách nhiệm. Báo cáo này phần lớn phục vụ cho mục đích quyết toán thuế.
Nếu những bất hợp lý trên không được Ban soạn thảo sửa đổi trước khi ban hành, thì sẽ “bóp chết” thị trường kế toán còn rất non trẻ, mới hình thành và phát triển được 10 năm.

Có ý kiến cho rằng, việc Ban soạn thảo đưa ra quy định người có chứng chỉ hành nghề kế toán phải có giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kế toán thì mới được hành nghề cung cấp dịch vụ kế toán chẳng khác nào “đẻ” ra giấy phép cháu. Ông có nghĩ như vậy, với tư cách là người có 10 năm kinh nghiệm điều hành DN dịch vụ kế toán?

Đúng là với quy định trên, những người hành nghề dịch vụ kế toán cảm thấy họ không chỉ có nguy cơ đối mặt với những phiền toán do giấy phép con gây ra, mà còn bị “hành” bởi giấy phép cháu. Điều này chứng tỏ một số quy định mà Ban soạn thảo đề xuất bổ sung vào Dự thảo Luật Kế toán là không cần thiết, thiếu tính khả thi, đi ngược lại xu thế cải cách thủ tục hành chính.
Theo ông, bất cập trên cần được khắc phục theo hướng nào, để vừa đạt được mục tiêu quản lý, vừa góp phần tạo thuận lợi cho thị trường kế toán phát triển?
Tôi đề nghị trong lần sửa đổi này, Luật Kế toán cần được sửa đổi mang tính rộng hơn, với tư tưởng cải cách mạnh mẽ hơn theo tư duy thị trường, thay vì chỉ dừng lại ở số chương, điều hạn chế như đề xuất của Ban soạn thảo. Nói như vậy không có nghĩa là “phá bỏ” những quy định hợp lý, phù hợp với yêu cầu của thực tế đã được chứng minh sau 10 năm áp dụng. Với các quy định về điều kiện hành nghề dịch vụ kế toán được Ban soạn thảo đề xuất sửa đổi như trên, đó là biểu hiện của việc “phá bỏ” các quy định hợp lý, trong khi lẽ ra cần được kế thừa. Để không làm phát sinh 9 loại giấy phép con, cháu như trên, Ban soạn thảo nên giữ nguyên các quy định về điều kiện hành nghề dịch vụ kế toán như quy định của luật hiện hành. Nếu vấn đề này được sửa đổi như dự thảo, thì sẽ gây khó dễ cho các DN kinh doanh dịch vụ kế toán.
Hữu Đạo

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2014

Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung luật kế toán: Những điều vô lý

Quản lý chặt chẽ về chất lượng dịch vụ kế toán là rất cần thiết. Song, không thể chứng minh được rằng, những điều kiện rất vô lý, đi ngược lại xu thế của cải cách hành chính được quy định trong dự thảo Luật sẽ có tác động nâng cao chất lượng của dịch vụ kế toán.

Bản thân chứng chỉ hành nghề đã là một “giấy phép con”, nhưng để được “hành nghề” lại phải xin cấp giấy chứng nhận hành nghề?
CôngThương - Quy định “Phần vốn góp của người có chứng chỉ hành nghề kế toán phải chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp là không khả thi. Chẳng hạn, một công ty TNHH có 5 thành viên, trong đó có 3 thành viên có chứng chỉ hành nghề kế toán, có vốn điều lệ 1 tỷ đồng, thì 3 thành viên có chứng chỉ hành nghề phải góp ít nhất 505 triệu đồng. Rất ít người có chứng chỉ hành nghề có đủ số tiền theo yêu cầu trên để góp vốn.
Quy định phần vốn góp của các thành viên là tổ chức không quá 35% vốn điều lệ của công ty dựa trên cơ sở nào? Theo Biểu cam kết về dịch vụ đính kèm Hiệp định gia nhập WTO của Việt Nam, lĩnh vực dịch vụ kế toán, kiểm toán không bị bất kỳ hạn chế nào. Vậy, quy định trên có vi phạm cam kết với WTO?
Theo quy định của Luật Kế toán hiện hành, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán chỉ cần có hai người có chứng chỉ hành nghề và đăng ký hành nghề với Hội Kế toán- kiểm toán Việt Nam (VAA). Song, theo dự thảo Luật, doanh nghiệp phải xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán với quy định về hồ sơ gồm: Đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán; bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đầu tư; bản sao giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kế toán của các kế toán viên hành nghề; hợp đồng lao động làm toàn bộ thời gian của các kế toán viên hành nghề; tài liệu chứng minh về vốn góp đối với công ty TNHH; các giấy tờ khác do Bộ Tài chính quy định.

Theo quy định của Luật Kế toán hiện hành, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán chỉ cần hai người có chứng chỉ hành nghề và đăng ký hành nghề với Hội Kế toán- kiểm toán Việt Nam

Như vậy, có hai giấy phép con xuất hiện là: Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kế toán của các kế toán viên hành nghề và giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán.

Điều ngạc nhiên lớn nhất là những người đã đủ những tiêu chuẩn khá cao và có tới 5 năm làm kế toán, phải qua một kỳ thi quốc gia mới có thể lấy được chứng chỉ hành nghề kế toán. Bản thân chứng chỉ hành nghề đã là một “giấy phép con”. Nhưng để được “hành nghề” lại phải xin cấp giấy chứng nhận hành nghề? Phải chăng, giấy chứng nhận hành nghề lại có giá trị pháp lý cao hơn chứng chỉ hành nghề? Và, có một giấy phép con mới chồng lên giấy phép con cũ?...
Dịch vụ kế toán là thị trường còn rất non trẻ ở nước ta. Số doanh nghiệp và kế toán viên đăng ký hành nghề với VAA còn rất ít. Số liệu của Ban quản lý hành nghề thuộc VAA cho biết, đến năm 2013, chỉ có 82 doanh nghiệp và 190 kế toán viên đăng ký hành nghề.
Các doanh nghiệp dịch vụ kế toán hoạt động hợp pháp đã và đang phải cạnh tranh vô cùng khốc liệt và không cân sức với lực lượng làm dịch vụ kế toán bất hợp pháp (không có chứng chỉ hành nghề, không đăng ký hành nghề), bao gồm các kế toán viên đã về nghỉ hưu, các nhóm dịch vụ kế toán tự do với sự “hỗ trợ” của cán bộ thuế (còn gọi là kế toán “chạy sô”), hoạt động dịch vụ kế toán của các công ty kiểm toán độc lập và các doanh nghiệp tư vấn thuế.
Trong bối cảnh trên, với chức năng quản lý nhà nước, Bộ Tài chính cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp dịch vụ kế toán tồn tại và hoạt động, có những biện pháp hạn chế hoạt động của lực lượng “kế toán chạy sô”, đơn giản hóa thủ tục hành chính, khuyến khích các doanh nghiệp dịch vụ kế toán đăng ký hành nghề với VAA để có thể quản lý về chất lượng dịch vụ.

Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Kế toán: Những điều vô lý

Bộ Tài chính đã hoàn thành dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán (dự thảo Luật), chỉ sửa đổi, bổ sung 10 điều của Luật Kế toán năm 2003, trong đó, quan trọng nhất là chia Điều 55 - Hành nghề kế toán - với những quy định vô lý, đi ngược lại xu thế cải cách hành chính hiện nay.

CôngThương 

 - Trước hết, việc áp đặt phương thức quản lý đối với kiểm toán độc lập cho hoạt 

động dịch vụ kế toán là không hợp lý. Bởi vì, giữa kiểm toán độc lập và dịch vụ kế toán có những điểm khác nhau rất cơ bản như: Kiểm toán độc lập được hành nghề trong mọi lĩnh vực, trong khi đó, dịch vụ kế toán chỉ phục vụ cho đối tượng là các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ. 


Người có chứng chỉ kiểm toán viên không được hành nghề cá nhân, ngược lại, người có chứng chỉ hành nghề kế toán được hành nghề cá nhân. Kiểm toán độc lập có sản phẩm riêng là báo cáo kiểm toán, còn sản phẩm của dịch vụ kế toán là hệ thống sổ kế toán, báo cáo tài chính của doanh nghiệp khách hàng theo quy định của pháp luật. Báo cáo kiểm toán của kiểm toán độc lập được sử dụng với nhiều mục đích như: Chia lợi nhuận; liên doanh, liên kết; đấu thầu..., trong khi đó, báo cáo tài chính do dịch vụ kế toán cung cấp chỉ phục vụ mục đích quyết toán thuế...
Đến nay, kiểm toán độc lập đã có mặt trên thị trường Việt Nam hơn 20 năm. Song, dịch vụ kế toán mới được thừa nhận về mặt pháp lý từ năm 2004 và chính thức được VAA quản lý từ năm 2009. Vì vậy, không thể lấy lý do “theo tiêu chuẩn quốc tế” để “bóp chết” thị trường non trẻ này.

Kiểm toán độc lập đã có mặt trên thị trường Việt Nam hơn 20 năm. Song, dịch vụ kế toán mới được thừa nhận về mặt pháp lý từ năm 2004 và chính thức được VAA quản lý từ năm 2009. Vì vậy, không thể lấy lý do ”theo tiêu chuẩn quốc tế” để ”bóp chết” thị trường non trẻ này.

Có thể khẳng định, những quy định bổ sung về điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán trong dự thảo Luật là không cần thiết, một số điều kiện thiếu tính khả thi và đi ngược lại xu thế của cải cách hành chính. Cụ thể:
Yêu cầu có ít nhất 3 kế toán viên hành nghề, trong đó tối thiểu phải có 2 thành viên góp vốn là quá mức cần thiết. Bởi người có chứng chỉ hành nghề không bắt buộc phải góp vốn vào công ty mà được phép làm việc theo hợp đồng lao động. Quy định này sẽ gây khó khăn lớn cho việc thành lập doanh nghiệp dịch vụ kế toán khi không thể thuyết phục được người có chứng chỉ hành nghề tham gia góp vốn.
Điều kiện “Người đại diện theo pháp luật, giám đốc hoặc tổng giám đốc của công ty TNHH phải là kế toán viên hành nghề” cũng vô lý. Bởi, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm toàn diện về mọi hoạt động của doanh nghiệp và do đó phải có kinh nghiệm quản lý, kiến thức tương đối toàn diện. Không phải bất cứ ai có chứng chỉ hành nghề kế toán là đã có kinh nghiệm trong quản lý doanh nghiệp. Do đó, chỉ cần quy định “Giám đốc (hoặc tổng giám đốc) doanh nghiệp dịch vụ kế toán phải có chứng chỉ hành nghề kế toán và chỉ người có chứng chỉ hành nghề kế toán mới được ký hợp đồng dịch vụ kế toán” là đủ.
Điều kiện “bảo đảm vốn pháp định theo quy định của Chính phủ” là một “sáng tạo” lạ đời! Bởi lẽ, dịch vụ kế toán không đòi hỏi vốn lớn, cũng không phải là lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm có thể phải bồi thường vật chất đến mức phải quy định vốn pháp định. Những rủi ro thường gặp trong dịch vụ kế toán đều có nguyên nhân từ sự không hợp pháp của chứng từ, tài liệu được sử dụng trong công tác kế toán. Song, các hợp đồng dịch vụ kế toán đều quy định về trách nhiệm của khách hàng là chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự hợp pháp của chứng từ, tài liệu kế toán được cung cấp để sử dụng trong công tác kế toán. Do đó, những khoản doanh nghiệp dịch vụ kế toán phải bồi thường cho khách hàng (nếu có) thường chỉ là phạt vi phạm hành chính từ những lỗi kỹ thuật của kế toán viên. Đó là số tiền không lớn để đến mức doanh nghiệp phải có vốn pháp định.
(Còn nữa)
Luật gia Vũ Xuân Tiền

Thành lập doanh nghiệp,thành lập công ty, dịch vụ kế toán